Lời BBt: Sau hơn một thế kỷ duy trì chính sách quốc tịch nghiêm ngặt, nước Đức đang đứng trước một bước ngoặt lịch sử: mở cửa rộng hơn cho người nhập cư thông qua những thay đổi sâu rộng trong Luật quốc tịch. Việc công nhận hai quốc tịch, rút ngắn thời gian cư trú hợp lệ và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho trẻ em sinh ra tại Đức là những dấu hiệu cho thấy sự thay đổi trong tư duy của một quốc gia từng nổi tiếng với lập trường “không phải là nước nhập cư”. Tuy nhiên, liệu sự cởi mở này có bền vững khi bối cảnh chính trị đang đổi chiều?
Bài viết dưới đây phản ánh văn phong và quan điểm riêng của tác giả — một độc giả thường xuyên của Tạp chí Hương Việt đang sống tại Berlin.
Foto: Tòa nhà Quốc hội Đức, nguồn TTXVN
Từ bảo thủ đến cởi mở
Luật quốc tịch đầu tiên của Đức là Luật Quốc tịch Đế chế (Reichs- und Staatsangehörigkeitsgesetz – RuStAG) được ban hành vào ngày 22 tháng 7 năm 1913, về cơ bản vẫn có hiệu lực cho đến ngày nay, với rất nhiều lần bổ sung, sửa đổi. Trong khoảng thời gian từ 1949 đến 1990, Luật này chỉ có hiệu lực ở lãnh thổ CHLB Đức; CHDC Đức có đạo luật quốc tịch riêng, ban hành 22/2/1967.
Luật quốc tịch của Đức được đánh giá là bảo thủ vì nó xác định quốc tịch khi sinh theo huyết thống (jus sanguinis) và không có ngoại lệ cho nguyên tắc nơi sinh (jus soli). Hai quốc tịch không được thừa nhận, người nước ngoài muốn nhập quốc tịch Đức bắt buộc phải mất quốc tịch gốc và công dân Đức nếu nhập quốc tịch nước ngoài thì sẽ mất quốc tịch Đức, trừ trường hợp được phép giữ quốc tịch Đức, bất kể người đó có quốc tịch Đức do sinh ra hay do nhập tịch.
Sau này khá nhiều trường hợp hai quốc tịch phát sinh chủ yếu từ chính sách đối với người tị nạn nhập quốc tịch nhưng thông thể làm thủ tục thôi quốc tịch gốc, trong đó có cả những “thuyền nhân” Việt Nam đến Đức những năm 70 và 80 Thế kỷ trước.Việc duy trì hàng thế kỷ quy định ngặt nghèo được cho là giúp nước Đức tương đối “thuần chủng” và ít có vấn đề phức tạp do tình trạng hai quốc tịch gây ra. Tư tưởng chủ đạo của các nhà chính trị và luật pháp Đức thời kỳ này là quốc tịch luôn là sự gắn kết thực tế bền vững giữa cá nhân và nhà nước, nhưng cũng đồng thời thể hiện sự trung thành tuyệt đối của công dân với nhà nước của mình.
Điều này có sự khác biệt so với quy định trong Luật quốc tịch của CHDC Đức năm 1967, theo đó có sự kết hợp giữa jus sanguinis và jus soli. Những trẻ em sinh ra ở CHDC Đức mà bố mẹ cư trú dài hạn ở đó thì có quốc tịch CHDC Đức. Ngoài ra yếu tố “trung thành với nhà nước” ở CHDC Đức được hiểu là trung thành với chế độ xã hội chủ nghĩa ở đó. Tuy vậy thì điểm giống của hai luật quốc tịch này là không công nhận “de-jure” hai quốc tịch.
Những quy định trên có thể giải thích là do tình hình chính trị bất ổn triền miên ở Châu Âu và Đức trong suốt nhiều thập kỷ qua, nhất là trong Chiến tranh lạnh. Các nước đều lo ngại đến an ninh và từ đó yêu cầu cao đối yếu tố trung thành của công dân.
Bước vào thập kỷ thứ hai của Thiên niên kỷ mới, về căn bản tình hình đã thay đổi khác xưa. Yếu tố an ninh và lòng trung thành tuy vẫn còn được nhắc đến, nhưng không còn giá trị tuyệt đối như xưa. Kỷ nguyên internet và xã hội số hầu như xóa nhòa ranh giới quốc gia, các quốc gia gắn kết với nhau bằng lợi ích kinh tế, con người liên kết chủ yếu trên không gian mạng. Thêm vào đó “không gian Schengen” thực sự đã mang đến sự tự do đi lại và sinh sống, làm việc ở hầu hết các nước Châu Âu.
Từ hơn thập kỷ trở lại đây Đức đứng trước những thách thức mới, trong đó đặc biệt là hệ quả của “khủng hoảng tỵ nạn” từ những năm 2015 do có đến hàng triệu người tị nạn từ Trung Đông và sau này từ Đông Âu tràn vào. Vấn đề thiếu hụt nghiêm trọng lao động trong mọi lĩnh vực xã hội, do thế hệ “bùng nổ trẻ sơ sinh” (“Baby Boom”) sau khi kết thúc chiến tranh đã bắt đầu bước vào tuổi nghỉ hưu và số trẻ em sinh ra lại tỷ lệ nghịch với số người nghỉ hưu tạo sức ép cực kỳ to lớn lên nền kinh tế và hệ thống an sinh xã hội, đồng thời đe dọa trực tiếp đến sự thịnh vượng của xã hội từ sau thời kỳ “thần kỳ kinh tế Đức”.
Liệu hàng triệu người tị nạn nhập cảnh vào Đức, trong đó nhiều người trẻ và được đào tạo có giúp giải quyết tình trạng thiếu hụt lao động hiện nay hay không? Câu hỏi tưởng đơn giản có lời giải, nhưng thực tế lại không như mong muốn.
Đã có thời gian dài người ta hy vọng những người trẻ tuổi đến từ Syria hay các nước Trung đông, và sau này từ Ukraina sẽ bổ sung vào sự thiếu hụt lao động hay các vị trí học nghề. Chính phủ Đức cũng cố gắng đưa ra những quy định thuận lợi và cởi mở nhất để thu hút nguồn lao động này, giúp họ hội nhập tốt hơn và đóng góp vào nền kinh tế địa phương.
Bằng việc cho những người này được nhập quốc tịch Đức một cách thuận lợi, Chính phủ liên minh “đèn giao thông” của Thủ tướng Olaf Scholz đặt cược vào đó một giải pháp căn cơ nhằm thúc đẩy hội nhập và sự đóng góp của cộng đồng 12 triệu người nhập cư không có quốc tịch Đức. Bà Nancy Faeser, nguyên Bộ trưởng nội vụ từng khẳng định không muốn ai phải lựa chọn giữa nguồn gốc và tương lai của họ. Những ai đã sống ở đây lâu dài, làm việc và tuân thủ pháp luật, phải được trở thành người Đức.” Trước đó nhiều người dù đã sống nhiều năm ở Đức nhưng vẫn không nhập tịch Đức do những quy định cũ quá phức tạp và nhiều rào cản (về ngôn ngữ, điều kiện bảo đảm cuộc sống, phải thôi quốc tịch gốc v.v.)
Với thay đổi này Chính phủ hy vọng làm thay đổi cái nhìn về một nước Đức bảo thủ trong vấn đề nhập cư (“Deutschland ist kein Einwanderungsland” - nước Đức không phải là nước nhập cư”) và từng tự hào họ có một luật nhập cư và quốc tịch thuộc hàng “cởi mở và hiện đại nhất thế giới”
Làm sao để tranh thủ “chất xám” của những người nước ngoài đang sinh sống ở Đức nhưng ngại không nhập quốc tịch do sẽ phải mất quốc tịch gốc? Bộ trưởng Tài chính Christian Lindner từng nói “Chúng ta cần những bộ óc và bàn tay từ khắp thế giới. Nếu họ gắn bó với đất nước này, thì nước Đức cũng nên gắn bó với họ.” Quan điểm này khá mới, vì từ trước đến nay chỉ là yêu cầu một chiều (cá nhân phải trung thành với nhà nước nơi cư trú), chứ phía nước chủ nhà không có yêu cầu hay nghĩa vụ phải gắn bó với họ. Họ đến và đi là quyền của họ, Nhà nước Đức không cổ vũ cho việc họ ở lại và gắn bó lâu dài thông qua quy chế quốc tịch. Các thế lực được cho là “thiên hữu” hay “cực hữu” dường như là động lực chính của những quan điểm và chính sách cứng rắn đối với người nước ngoài.
Người nước ngoài hy vọng là những điều chỉnh của Luật sửa đổi (StAModG) có hiệu lực từ ngày 27/6/2024 sẽ mang đến cho họ sự ổn định lâu dài khi sinh sống ở Đức.
Những sửa đổi căn bản bao gồm:
i) Thời gian cư trú hợp lệ được giảm từ 8 năm xuống 5 năm và 3 năm đối với những người hội nhập tốt;
ii) Người nước ngoài nhập quốc tịch không phải từ bỏ quốc tịch gốc; công dân Đức nhập quốc tịch nước ngoài cũng không tự động mất quốc tịch Đức;
iii) Đối với trẻ em sinh ra ở Đức nếu cha (hoặc mẹ) cư trú hợp pháp ở Đức từ 5 năm trở lên và có quy chế thường trú (unbefristet) thì sẽ tự động có quốc tịch Đức khi đăng ký khai sinh và không phải lựa chọn giữa quốc tịch Đức và quốc tịch cha mẹ (nếu có) khi đủ 18 tuổi.
Trên thực tế, số người nhập tịch Đức trong một năm qua tăng đáng kể. Năm 2024 là 291.955 người, tăng 46% so với 2023, phần lớn đến từ các nhóm người Syria, Thổ Nhĩ Kỳ, Nga, Iraq và Afghanistan. Tại bang Berlin con số có thể tăng từ 15-17 ngàn năm 2023 lên 20-25 ngàn năm 2024.
Liệu có lại từ cởi mở quay về bảo thủ?
Tuy vậy thì sự kỳ vọng của Đức vào “bùng nổ” đơn xin nhập tịch và bổ sung lực lượng những “công dân mới” vào thị trường lao động lại không như mong muốn. Đa số những trường hợp nhập tịch thời gian qua là các trường hợp còn “tồn đọng” từ nhiều năm trước, chủ yếu là những người lao động nước ngoài, thân nhân họ, trong đó đáng kể nhất là người Thổ Nhĩ kỳ.
Đại đa số người tị nạn từ năm 2015 không đáp ứng điều kiện về cư trú do thời gian chờ xem xét đơn tị nạn không được tính vào thời gian cư trú hợp lệ, họ cũng không có công việc ổn định hay không thể tham gia thị trường lao động do thiếu bằng cấp, kỹ năng, nhất là trong những lĩnh vực, ngành nghề mà Đức đang thiếu hụt nghiêm trọng (như các ngành IT, điều dưỡng, nhà hàng, khách sạn v.v.). Tâm lý của nhiều người còn nghĩ họ chỉ ở Đức tạm thời chờ ngày hồi hương như tâm trạng chung của người Ukraine hiện nay.
Thêm vào đó còn là yếu tố chủ quan. Tâm lý của nhiều người lo ngại vì tuy Đức cho nhập tịch mà không buộc phải từ bỏ quốc tịch gốc, nhưng điều đó không bảo đảm họ không bị mất quốc tịch gốc do quy định của những nước này. Đến nay còn nhiều nước quy định công dân nếu nhập quốc tịch nước ngoài sẽ tự động mất quốc tịch (như Trung Quốc chắng hạn), hoặc coi việc nhập tịch nước ngoài là cơ sở để tước quốc tịch. Theo Luật quốc tịch Lào chẳng hạn, công dân Lào tự nguyện nhập quốc tịch nước khác phải được cơ quan có thẩm quyền của Lào chấp thuận, và sẽ mất quốc tịch Lào.
Luật quốc tịch sửa đổi mới có hiệu lực được hơn một năm lại đứng trước nguy cơ sẽ lại thay đổi. Có thể không phải thay đổi căn bản hoặc quay lại như trước kia, nhưng chắc chắn những thay đổi cũng không nhỏ.
Lý do lần này đến từ sự thay đổi Liên minh cầm quyền sau khi Chính phủ Liên minh “đèn giao thông” phải nhường chỗ cho Liên minh mới (“Đại liên minh CDU/CSU và SPD) của Thủ tướng Friedrich Merz. Sở dĩ nói là không thể “quay xe” 180 độ bởi vì dù sao Đảng Xã hội dân chủ Đức (SPD) tuy bị coi là thất cử nhưng vẫn tiếp tục tham gia Chính phủ lần này và chắc chắn sẽ cố giữ được càng nhiều càng tốt những thành quả của Chính phủ tiền nhiệm của đảng mình.
Tháng 5 vừa qua Chính phủ mới của Thủ tướng Merz đã de-facto ngừng áp dụng cho nhập tịch những người mới cư trú ở Đức có ba năm. Thay vào đó áp dụng chung là thời hạn cư trú tối thiểu 5 năm. Đối với những trường hợp muốn đưa gia đình sang đoàn tụ cũng áp dụng thời hạn 5 năm thay vì 3 năm như vừa sửa đổi.
Riêng về vấn đề hai quốc tịch, Liên minh CDU/CSU có vẻ “rắn” hơn và gần như bảo lưu quan điểm từ trước đến nay của họ, là hai quốc tịch chỉ nên được coi là trường hợp ngoại lệ, không chấp nhận hai quốc tịch tràn lan đối với mọi trường hợp nhập tịch. Mới cư trú có 3 hoặc 5 năm chưa đủ cơ sở để bảo đảm là họ đã hội nhập toàn diện vào xã hội Đức và do đó không nên trở thành “người Đức”. Việc một người nước ngoài trở thành công dân Đức phải là kết quả của quá trình gắn bó của họ với nhà nước và xã hội Đức; tình trạng hai quốc tịch làm suy yếu sự gắn kết này.
Ông Merz khi còn đang là Thủ lĩnh đối lập và ứng cử viên Thủ tướng của CDU/CSU đã từng phát biểu trước Quốc hội Đức, chỉ trích mạnh mẽ chính sách quốc tịch của Thủ tướng Scholz “Chính sách hai quốc tịch mà Liên minh đèn giao thông vừa thông qua không thể coi là phổ biến… vì như vậy chúng ta chỉ rước thêm phức tạp vào trong nước. Chí ít cũng phải quy định là có thể tước quốc tịch Đức nếu chúng ta nhận ra đã có sai sót trong trường hợp cho nhập tịch những người phạm tội sau đó.
Cũng có những tiếng nói “cực đoan” hơn khi phê phán Luật Quốc tịch của Chính phủ tiền nhiệm là một “sai lầm nghiêm trọng” và việc cho nhập tịch ồ ạt khiến quốc tịch Đức trở thành “mặt hàng giá rẻ” và tạo xung đột về lòng trung thành.
Chưa ai biết tình hình sẽ như thế nào trong nhiệm kỳ chính phủ lần này. Có thể sẽ có những điều chỉnh nho nhỏ cho vừa lòng cả hai đảng, nhưng cũng không loại trừ Luật quốc tịch sửa đổi năm 2023 và có hiệu lực 2024 sẽ lại được sửa đổi vào năm nay hay năm tới./.
Đức Nguyễn (Berlin)
ĐỨC SỬA ĐỔI LUẬT QUỐC TỊCH - từ kỳ vọng đến thất vọng
Tiện ích
Phông chữ
- Font Size
- Default
- Chế độ đọc