Phông chữ

Lê Thị Huệ: Bạn viết nhiều thể loai.  Thơ, truyện, dịch, tản văn, tùm lum. Thích mình ở mục nào nhất ?

Thế Dũng: Đôi khi ý tưởng sáng tác  trong tôi  lên cơn thao thức cho tới lúc tâm trí tự tìm ra thể loại thích hợp. Sau đó, một cảnh ngộ hoặc một áp lực cụ thể  sẽ làm tôi viết bằng xong. Cứ viết được một cái gì đó là thích rồi. Tuy nhiên, bây giờ thì tôi thấy thích mình ở mục  tiểu thuyết  nhất. Có lẽ, vì đây là công việc lao động kiên nhẫn  nặng nhọc, đầy thử thách  không thể dựa dẫm vào cảm hứng.

Lê Thị Huệ: Vừa tung lên mạng, vừa duy trì nhà xuất bản giấy ở Đức. Rồi còn in sách thường xuyên ở Hà Nội. Tại sao làm nhiều thứ như thế ?

Thế Dũng:  Thích được sống trong sự giao lưu đa chiều và muốn sống có chất lượng cao. Muốn sống cao  hơn một sự tồn tại sinh học nên tôi rất mê Internet và thích vào mạng để  có thể giao cảm với mọi người, hy vọng  luôn cảm thấu được các năng lương tinh thần tươi mới. Khi tự biết  mình sẽ chỉ làm được gì trong cuộc đời này là tôi lên kế hoạch. Sống là phải thức trong từng khoảnh khắc. Thức trong từng khoảnh khắc  để biết cái gì phải làm ngay và cái gì phải làm từ từ. Sau khi rời nước, tôi luôn muốn in được sách của mình tại Việt Nam. Từ năm 2003, do những người bạn cũ và  cơ chế khá thông thoáng của đời sống xuất bản  trong nước đã làm cho ý định in sách ở Hà Nội của tôi trở thành hiện thực. Tại sao làm nhiều thứ như thế ư ? Tôi thì vẫn thấy mình vẫn còn làm được quá ít. Cảm ơn đánh giá của bạn.  Làm nhiều thứ ư? Hình như đó cũng là một cách để thoát khỏi cô đơn và tự cảm thấy mình không vô tích sự…

Lê Thị Huệ: Bạn có bao giờ chú ý đến việc người Việt ở Đức sáng tác khác với người Việt ở Mỹ, hay ở Úc chẳng hạn.

 

Thế Dũng:  Đương nhiên là người Việt ở Đức sáng tác khác với người Việt ở Mỹ  hoặc người Việt ở Úc rồi. Đất nào cây ấy mà. Thú thực tôi chưa có thời gian chú ý đến sự khác nhau đó với đôi mắt khảo cứu. Đây sẽ là một chủ đề hấp dẫn của các nhà nghiên cứu văn chương di cư, văn chương hải ngoại.

Lê Thị Huệ: Câu này hơi đặc biệt. Vì sự lặp lại của nó. Tôi đã đặt câu hỏi với nhà văn Hồ Đình Nghiêm, một nhà văn gốc Huế, sau 1975 đã vượt biển – hay còn gọi là “vượt biên” - và tỵ nạn chính trị ở Montreal Canada.  Anh là nhà văn gốc Hải Dương sang lao động ở Đông Đức, vì biến cố Bức Tường Bá Linh Cộng Sản sụp đổ mà ở lại Berlin. Tư thế của anh là nhà văn ra đi từ miền Bắc,  khác với nhà văn Hồ Đình Nghiêm ra đi từ Miền Nam, sau chiến tranh Nam Bắc Quốc Cọng 1954-1975. Một gặp gỡ thú vị là cả hai cùng đang trưng bày các sáng tác trên Gió O vào thời điểm www.gio-o.com kỷ niệm lên Mười 2001-2011


Tôi thích gọi tôi là "Nhà Văn Hải Ngoại", vì sự ra đời của từ này gắn liền với tư thế từ chối chủ nghĩa Cộng Sản của những người ty nạn chính trị ra khỏi Việt Nam năm 1975. Và vì thế từ đó mới có từ "Nhà Văn Hải Ngoai" . Tôi yêu kỷ niệm với sự chào đời này, nên thích nhận mình là "Nhà Văn Hải Ngoại".  Hơn là "Nhà Văn Lưu Vong" (người ta có thể Lưu Vong ở ngay chính trên Quê Hương của họ).  Hoặc là "Nhà Văn Di Dân", từ Nhà Văn Di Dân nghe không hách xì xằng, không mang một thái độ chính trị mãnh liệt, gấu, như Hải Ngoại. Trong cái mớ bùng xùng tôi vừa kể, anh gọi tên anh là gì ?

.

Thế Dũng:  Khi chưa rời Việt Nam, với tôi, danh xưng  “nhà văn Hải ngoại” gắn liền với các khái niệm lao khổ và can đảm vì tôi đã đọc được khá nhiều nhà văn miền Nam qua tủ sách tham khảo đặc biệt ở Thư viện Quân đội. Sau khi tới Berlin, đọc thêm nhiều nữa,  tôi thấy  danh xưng nhà văn Hải ngoại chỉ  thuần túy là một cách khu biệt đất sống của người cầm bút. Tôi cũng không thích được (hoặc bị) gọi là nhà văn lưu vong mặc dù từ những năm 80 của thế kỷ trước, khi chưa rời khỏi Việt Nam, tôi đã thấy tôi là kẻ lưu vong ngay trên quê hương. Dù ở đâu và bao giờ thì lưu vong cũng là một nỗi đau. Tôi cũng không thích được hoặc bị gọi là nhà văn di dân hoặc nhà văn di cư  mặc dù với thân phận nhà văn thì di cư chính là một định mệnh;  mà hạnh phúc hình như lại là sự an cư. Lúc  ngoài hai mươi, bố tôi  đã từng là Đảng viên Đảng Lao đông Việt Nam. Khi mười tám tuổi, tôi đã từng ao ước trở thành  Đảng viên và luôn luôn là đối tượng cảm tình Đảng. Thế rồi, chợt một chiều tóc trắng như vôi. Tôi thấy mình bị vỡ mộng. Thế rồi, chợt một chiều, tôi thấy mình tan hoang trước các thần tượng sụp đổ  ngổn ngang và chợt bị mê hoặc  với  hiện sinh và  huyền học. Trước khi nhắm mắt  vào tháng Chạp năm Bính Dần (1986),  bố tôi rất buồn khi tôi an ủi ông. Bố yên tâm đi, không trở thành Đảng viên con vẫn có thể làm người tử tế. Lúc đó, tôi đã nhận ra mình chỉ có thể sống cuộc đời của một kẻ không đảng phái. Bạn bè của tôi nhiều người  Đảng viên, thậm chí có người nghiện Đảng viên như nghiện thuốc phiện, như nghiện một  thời trang và cũng nhiều người không ưa Cộng sản. Tôi thích được  liên minh với sự tử tế và minh triết  ở  tất cả; dù người ấy là Cộng sản hay không. Tôi không có duyên với các đảng phái vì con người  tự do cá nhân bất kham trong  tôi không ưa  sự áp chế và ràng buộc nào ngoài sự ràng buộc và áp chế của  tự nhiên. Tôi thán phục tinh thần Tam giáo đồng nguyên trong mấy đời vua thịnh trị nhất của nhà Trần. May mà,  sớm biết ngưỡng mộ  lý thuyết Về sự tương tác giữa các trường thống nhất trong vũ trụ của Alberl  Einstein và sớm bị mê hoặc bởi sự biến hóa khôn lường của  Kinh Dịch; cho nên, dù lăn lóc giữa  cuồng phong thời thế tôi vẫn luôn luôn tự biết tu thân dưỡng tính để  tự tái tạo phận mình. Tôi cũng  thuộc vào loại được (hoặc bị) gọi là nhà văn hải ngoại vì đã có hộ khẩu Berlin từ hơn hai mươi hai năm nay. Tự nguyện tới Đông Đức theo  một hợp đồng xuất khẩu lao động năm năm giữa hai nhà nước xã hội chủ nghĩa, sự xuất ngoại của tôi không có gì là hiển hách. Không  tới nước Đức  trong tư thế từ chối chủ nghĩa cộng sản của những người tỵ nạn chính trị ra khỏi Việt Nam năm 1975, không ở lại CHLB  Đức theo quy chế tỵ nạn chính trị, nên tôi không có  tự cảm  gì về cái gọi là mãnh liệt hoặc gấu trong danh xưng “nhà văn hải ngoại“. Tháng 5 Năm 1990, tôi đã từ chối sự bồi thường 3000DM và vé hồi hương  của CHDC Đức để trước hết ở lại nước Đức cho đủ năm năm ( 1989-1994) cái Hợp đồng đã bị phá vỡ vì sự sụp đổ của Đông Âu. Sau đó,  tôi đã  tận dụng  Quy chế về quyền được ở  lại của những người Việt Nam đã tới Đông Đức theo Hợp đồng xuất khẩu lao động để ở lại CHLB Đức theo Luật dành cho Ngoại kiều.  Do đó, tôi  không có hoài  cảm gì để thích thú  khi được gọi (hoặc khi tự gọi mình) là nhà văn Hải ngoại với tư thế  từ chối chủ nghĩa Cộng sản một cách hiên ngang. Trong hồi ức,  tôi vẫn có  rất nhiều hình ảnh người Cộng sản  tử tế, tài ba. Dù đau đớn, tôi vẫn thường xuyên phải  giã  biệt chính mình. Năm 1980,  Luận văn tốt nghiệp Đại học Sư phạm Hà Nội I với nhan đề:Hình tượng Bà Bovary và sự vỡ mộng của văn chương  Pháp trong thế kỷ 19 của tôi được cô giáo Thái Thu Lan cho điểm 9/10. Không có khả năng tự đảo chính sự  tồi tệ của chính mình  thì tôi không thể trở thành  người khác tử tế hơn. Không thể tự lật đổ sự kém cỏi của bản thân mình  thì  tôi không  thể trở thành tôi đích thực. 
 

Ngẫm lại hóa ra nhiều năm nay, trong tâm thế vỡ mộng, tôi đã lặng lẽ  cách xa với chính quyền ở Hà Nội. Sự biệt ly này thoạt tiên giống hệt  như  sự  kết thúc tự nguyện của một cuộc tình đầu  không có giấy giá thú với lý do tính tình không hợp. Sau đó là sự ly biệt điềm nhiên trong thái độ  từ chối  một sản phẩm tinh thần đã quá hạn sử dụng. Với tôi, sự từ chối chủ thuyết này để tiếp nhận một chủ thuyết khác  luôn luôn là sự phát triển nội tại tất yếu của một bản thể  thường xuyên hoài nghi để khám phá. Vì thế, tôi rất trân trọng  niềm hứng thú  với danh xưng nhà văn Hải ngoại trong tâm thế hoài cảm của bạn. Còn tôi, trong  tâm thế vị lai  tôi  chỉ thích tự gọi mình là nhà văn Việt Nam. Nhưng bỗng nhiên, có ai đó gọi tôi là nhà văn hải ngoại hay nhà văn lưu vong, hoặc nhà văn di cư  tôi thấy cũng không sao.

Lê Thị Huệ: Sống đa phương, viết đa loại như Thế Dũng, cũng là người hơi bị hiếm. Đời sống thật và thế giới sáng tác, hỏi bạn thế giới nào mạnh hơn vậy ?

Thế Dũng:  Với tôi đời sống thật luôn luôn mạnh hơn. Luôn luôn là sức mạnh sinh thành ra thế giới sáng tác. Thật tuyệt vời  nếu được sống  như mình muốn và  như mình thích. Muốn gì thì gì,  trước hết vẫn cứ  phải sống thật hết mình, thật đã đời. Dù thành hay bại cũng cứ  phải sống cho tới bờ tới bến. Hạnh phúc hay bất hạnh thì vẫn cứ sống một cách điềm nhiên và mãnh liệt. Chưa yêu chưa sống hết mình  thì đừng vội lo những hoa hồng tan nát có thành thơ hay không ? Sống cái đã.  Sau đó mới là sự sống lại một lần nữa bằng ngòi bút phục hiện chân tướng sự thật.  Thế giới sáng tác có lẽ chính là sự phục sinh của đời sống thật. Kẻ dám sống có thể không muốn hoặc không thèm viết. Nhưng ai không dám sống thì …chắc là sẽ không dám viết. 

Lê Thị Huệ: Bạn về Hà Nội thường xuyên, giữa xa và gần, bạn thấy mình gần với các cây viết trong nước ở những điểm nào, và xa với họ ở những điểm nào ?

 Thế Dũng: Từ năm 2001 đến nay, tôi hay về Hà Nội. Nên đã có dịp gặp lại một số nhà văn là người  quen cũ như: Hoàng Nhuận Cầm, Nguyễn Sĩ Đại, Phạm Xuân Nguyên,Nguyễn Thụy Kha ,Vân Long, Nguyễn Trọng Tạo, Hữu Thỉnh, Lê Lựu, Anh Ngọc, Trần Đăng Khoa, Nguyễn Huy Thiệp, Hoàng Ngọc Hiến, Đỗ Minh Tuấn, Nguyễn Đức Quang, Cao Xuân Sơn, Nguyễn Linh Khiếu, Phạm Tường Vân, Đặng Huy Giang, Hồng Thanh Quang, Đinh Quang Tốn, Phạm Khải, Thùy Linh,Thùy Dương, Văn Duy, Nguyễn Duy, Châu Diên (tức Phạm Toàn), Đoàn Lê, Đăng Nhật Minh, Nguyễn Phan Hách, Trần Nhương,Trung Trung Đỉnh, Vũ Xuân Hoát…Ngoài ra,  tôi  còn có dịp gặp gỡ với Bằng Việt, Đoàn Tử Huyến, Lê Minh Khuê, Trần Thị Trường, Nguyễn Đạt, Nguyễn Việt Hà, Thành Chương, Nguyễn Việt Chiến, Đỗ Bạch Mai, Vân Đình Hùng, Nguyễn Thị Anh Thư, Đà Linh, Nguyễn Khắc Trường, Hoàng Minh Tường, Đỗ Hoàng Diệu, Lê Anh Hoài, Đặng Thân, Phùng Văn Khai,  Phan Huyền Thư, Thanh Xuân, ..v..v…  Với những  người quen cũ sự gần  là những kỷ niệm  đầy gian khó với  phố phường Hà Nội  thời chữ nghĩa bao cấp. Những người trẻ  và  tôi thì gần nhau trong   sự âm thầm bứt phá, để tìm kiếm một lối viết táo bạo. Họ cũng như tôi, cũng  luôn luôn khao khát tự do thông tin, tự do ngôn luận.  Chẳng hạn, ngày 14-08-2006,  cùng một số bè bạn, tôi  đã tổ chức thành công  một „Đêm Bia Đức và thơ tình của Bertolt Brecht (1898-1956)“ , nhân kỷ niệm 50 năm ngày mất của ông(1956-2006) tại Nhà hàng Sư Tử ở 96 Thái Thịnh Hà Nội. Hôm đó thật vui vì tôi là MC và có tới bảy tám chục văn nghệ sĩ  ở Hà Nội đã tới dự. Giáo sư Đình Quang, giáo sư Hoàng Ngọc Hiến, dịch giả Quang Chiến, nhà thơ Bằng Việt, đã phát biểu tham luận rất chuyên nghiệp về sân khấu, về thơ của Bertolt Brecht.  Chàng Tiến sĩ Toán người Đức,  chồng cũ của vợ tôi cũng tham luận và cho rằng những người tình của B. Recht  đều xấu gái đã làm mọi các bạn tôi ngạc nhiên cười thú vị. Tôi nghiệm ra, trong những lúc nhấp chén men vui với nhau như thế, chúng tôi ít khi nhận ra sự xa cách.Nhưng trong những tình huống liên quan đến việc xử lý nghiêm ngặt những bản thảo “hải ngoại“ thì tôi chợt nhận ra giữa tôi và những người quen cũ có những khoảng cách của  cơ chế. Năm 2006, tờ Nguyệt San Người Hà Nội, vì  đã  in thơ và bài của nhà thơ  Viên Linh (do tôi tùy hứng tự chọn và gửi) trong 2 số liền nên đã chỉ ra được tới số thứ năm  thì nhóm chủ trương phải tự đình bản. Sau này, tôi được nghe nói là việc đình bản không chỉ vì lý do tài chính mà còn vì Tổng biên tập Nguyệt san  đã „được“ Ban văn hóa văn nghệ trung ương nhắc nhở về vụ in bài của hải ngoại.

Hoặc tháng 06 năm 2010, nghe một người bạn văn, đang là Phó Tổng biên tập  của An Ninh Thế Giới, kêu ầm lên ở đầu dây bên kia. Cảm ơn anh. Em đọc rồi, được lắm. Nhưng sách của anh, có cả phỏng vấn Vũ Thư Hiên và phỏng vấn  Viên Linh thì báo Công An không giới thiệu được đâu.

Không sao, công an đọc được là tốt rồi.

Tôi đùa cợt vu vơ sảng khoái vì bỗng dưng nhận ra một khoảng trống mặc nhiên giữa hai kẻ một thời  đã từng nhiều phen rưng rức với thơ và rượu.  Tháng bảy năm 2010, sau khi cuốn Tùy bút  và Đối thoại Văn chương Bên Dòng Sông Tình Sử đã in xong,  nhà văn Đà Linh, người đại diện bản thảo cuốn sách đã nhắn  tin cho tôi đại ý:  An ninh văn hóa đã tới làm việc rất nhiều lần với Giám đốc nhà xuất bản Lao Động. Tuy nhiên, mọi lăn tăn của họ đều được giải trình. Có Giám định nội dung, có giấy phép của Cục xuất bản. Mọi việc đều đã được làm đúng Luật. Tuy nhiên, cuối cùng họ đã yêu cầu: Dù tác giả là người rất tâm huyết nhưng đề nghị cấm tái bản cuốn này.“

Tóm lại, với các cây bút ở Hà Nội tuy nhiều  gần gũi trong những  tâm huyết bút mực nhưng cũng hơi xa vì họ thuộc về  những Chi ủy, những cơ quan  mà  tôi không thuộc về…

Lê Thị Huệ: Bạn có nhận xét gì về thế giới Internet hiện nay và tiếng Việt viết bởi những người sống xa Việt Nam như chúng ta.

 

Thế Dũng: Với tôi thế giới Internet hiện nay  là một phép lạ thường ngày. Nhờ nó mà  thế giới tinh thần  của con người vốn cô đơn trôi nổi một cách mênh mang có nhiều cơ may tìm ra được sự liên thông tương tác có ý nghĩa an ủi, tiếp sức và giải cứu cho nhau một cách khá hữu hiệu.

Thế giới Internet  là nguồn tri thức đa dạng, lớn lao mà chúng ta có thể tận dụng một cách chọn lọc để trí tuệ của mình có thể phát triển một cách tự do, tự chủ với một gia tốc lạc quan. Thế giới mạng của người Việt ở trong nước và ở hải ngoại hiện nay khá sinh động và mẫn cảm. Nó đang chứa  một sức mạnh bất khuất trước các mưu toan  bịt mồm bịt miệng cả thường dân lẫn trí thức để bưng bít thông tin và đàn áp tự do dân chủ của các đầu óc độc tài.

Sống xa Việt Nam, nhưng chúng ta  lại luôn viết bằng tiếng Việt. Tôi luôn luôn là kẻ hành hương bàng hoàng trong lục địa  Việt ngữ. Tâm hồn tôi như một cánh buồm luôn trôi nổi trong những  sóng gió của ngữ pháp Việt. Tưởng như thần hồn chúng ta luôn định cư trong hệ ngữ âm của tiếng mẹ đẻ nhưng thực  ra không hẳn chỉ có vậy.  Ai đó biết tiếng Mỹ và chỉ viết tiếng Việt  tại Mỹ như bạn ? Ai đó vì tiếng Đức ú ớ mà  chỉ viết tiếng Việt tại Đức như tôi ?  Dù muốn hay không, năm này qua năm khác, câu văn tiếng Việt của chúng ta rồi cũng sẽ không còn như ngày nảo ngày nào.  Cả ý cú lẫn pháp cú tiếng Việt của  người Việt ở Mỹ cũng như của người Việt ở Đức rồi đây sẽ rất khác.  Cái khác lạ rất dễ nhận ra là tốc độ của câu chữ. Là tốc độ của đời sống di chuyển từ câu văn này sang câu văn khác. 

Chữ nghĩa  của  những người viết tiếng Việt ở ngoài lãnh thổ Việt Nam, ở trong những thể chế khác nhau, những nhịp sống  khác nhau sẽ có một tốc độ khác nhau, một nhạc tính khác nhau. Nhưng cũng không nên quên rằng, ngay ở trong nước bây giờ đã có hơn một thế hệ người Việt trẻ khá giỏi ngoại ngữ. Đó chính là tiềm năng, là nội lực khả biến, là động lực phát triển của tiếng Việt mà cả tôi lẫn bạn đều có cơ hội tiếp nhận. Và cũng không thể không thấp thỏm lo âu, liệu lớp con cháu của tôi và bạn ở nước ngoài có thể viết văn bằng  tiếng Việt hay không ?

Lê Thị Huệ: Làm ơn phát biểu một điều gì đó về Gió O Mười Năm

Thế Dũng: Trước hết, làm ơn cho tôi cảm ơn vì bạn đã có nhã ý để tôi có dịp phát biểu  về gió-o Mười năm.Tuy nhiên tôi lại thích nói nhiều hơn một điều gì đó.

Thứ nhất là về bạn và về Gió-o. Vừa sống trong tư thế một nhà văn, một Thạc sĩ Tâm lý học ở cương vị giáo sư tại một Đại học ở Mỹ; mà vừa điều hành được một gio-o mười năm lừng lững như vậy là rất gấu; rất mãnh liệt. Trong tư cách chủ biên, bạn đã  độc lập, tự chủ  trong việc biên tập và duy trì các thể loại, chủ đề trong một cấu trúc lập thể với một phẩm lượng thường xuyên được lựa chọn  nghiêm túc và tinh tế.  www.gió-o.com  vừa có cái để đọc, để nhìn vừa có cái để nghe, để suy ngẫm trên diện rộng của cả thực ngôn, ảo ngôn lẫn  thực âm,  mỹ ảnh và  cả trong chiều sâu của từng chân dung tác giả đã được chắt lọc và phát hiện. Có lẽ vì thế mà sau mười năm, gio-o đã không chỉ là một địa chỉ quen thuộc và tin cậy của các nhà văn hải ngoại mà còn trở thành nơi thành danh, nơi ký thác của nhiều cây bút ở trong nước. Bạn và Gió-o Mười năm là một kỳ tích.

Thứ hai là về  tôi và Gió-o.

Thoạt đầu, tôi để ý đến www.gio-o.com và sẵn sàng cộng tác vô điều kiện là vì biết chủ biên là tác giả của cuốn:“ Văn hóa trì trệ, nhìn từ Hà Nội đầu thế kỷ 21“.  Gió-o đã mười năm, nhưng tôi mới chỉ gắn bó với gió-o chừng năm năm.  Theo Bát tự Hà Đồ - Lạc Thư, mệnh số của tôi có quẻ Hậu thiên là Thiên Phong Cấu. Thiên Phong Cấu là Càn ở trên Tốn. Tượng của quẻ này là Gió đi dưới Trời. Tôi đã và đang sống như một cơn gió đi dưới trời. Chẳng cần hỏi vì sao người  lại đặt tên là Gió-o. Linh tính mách bảo: đây là đất lành. Thế là tôi ghé qua, rồi đậu lại và cũng vi vu cùng  Gió. Nhờ www.gio-o.com  mà tôi có thêm người quen mà tâm tư. Nhờ gió-o mà  có lần tôi gặp lại bạn ở Trường Sơn năm  xưa. Tử vi  tôi có sao Thiên Đồng và Thái Âm cư mệnh. Chủ biên gió-o là nữ sĩ họ Lê. Rõ ràng sự gặp gỡ của tôi và gió-o là do cơ duyên.

Thứ ba là về  ngày mai.

Chắc là bạn cũng đã thấy cú đạp thẳng từ trên cao của Đại úy an ninh Nguyễn Văn Minh vào khuôn mặt  đang nằm ngửa của người biểu tình yêu nước Nguyễn Trí Đức ( ngày 17.07.2011) trong khi anh đang bị bốn cảnh sát  túm chặt bốn vó để khiêng lên xe Buýt như khiêng một con thú giữa lòng phố Hà Nội ?

Chắc bạn  đã biết  mười năm qua ở Việt Nam ngoài Lê Chí Quang, Lê Công Định, Nguyễn Văn Lý, Lê Thị Công Nhân, Trần Khải Thanh Thủy, Vi Đức Hồi… đã có bao nhiêu Luật sư, Luật gia và bao nhiêu người cầm bút  như Bloger Mẹ Nấm ( Nguyễn Ngọc Như Quỳnh), như Phạm Thanh Nghiên, như Bloger Điếu Cày ( Nguyễn Văn Hải) đã bị chế độ Cộng sản Hà Nội bỏ tù ?

Chắc  bạn đã biết, mới đây  trong phiên xử Phúc thẩm ngày 02.08.2011, Đảng Cộng Sản Việt Nam vẫn Y ÁN bảy năm tù trong, ba năm tù ngoài cho Luật gia Cù Huy Hà Vũ bất chấp mọi khuyến cáo   của Mỹ, của Liên minh Châu Âu, của hàng hàng ngàn trí thức Việt Nam và của  Tổ chức Nhân quyền quốc tế ?

Mới đây,  gió –o đăng bài thơ Một ngày thèm nghe đả đảo của  Lê Thị Huệ .  Bài thơ mà bạn viết tại Hà Nội từ mùa hè năm 1996. Lúc ấy bạn chợt tự ngộ: Thì ra tôi thèm nghe một Tiếng Kèn Cách Mạng ngay lòng phố Hà Nội.Thèm nhìn đám đông xuống đường biểu tình để xóa tan đi bóng dáng trì trệ, đấm vào sự ngu si đần độn, của thủ đô. Và bạn đã viết tiếp như  một trần tình: Bây giờ là mùa hè năm 2011, một bản tin vừa loan cuộc biểu tình ở Hà Nội đã qua tuần thứ Tám… Tôi đang chờ Hà Nội có những đám đông tám vạn hay tám chục ngàn người xuống đường. Tôi chờ đợi những cơn điên cần thiết

Chắc chắn là vì bạn đã…Tình cờ thấy được một tấm ảnh có người đàn ông thổi kèn trong đám đông biểu tình ở Hà Nội vào tuần lễ 24 tháng 07 năm 2011 mà tôi được đọc lại bài thơ  “Một ngày thèm nghe đả đảo” trên gió-o. Dự cảm  từ Hà Nội - mùa hè 1996 của bạn đã không sai.

Ngày mai gió-o sẽ ra sao ?

Năm 2002, sau khi khởi sự gió-o, bạn bắt bắt đầu một chu kỳ sống mới.

Năm 2011, sau gió –o mười năm, một chu kỳ sống mới của bạn lại đã bắt đầu.

Ngày mai gió-o sẽ ra sao ?

Câu hỏi này dường như  chẳng nói lên một điều gì đó về Gió-O Mười năm. Bạn không cần trả lời.

Như  gió đi dưới trời chúng ta đã gặp nhau.

Gió đi dưới trời bỗng dưng có thể trở thành những cơn lốc

Gió đi dưới trời bỗng dưng có thể trở thành sóng lừng

Tôi vẫn tin, đời sống thường xuyên  tự thay hình đổi dạng, tự biến hóa đời đời.

Tôi vẫn tin, bản chất của  con người là không bao giờ chịu khuất phục trước những con thú.

Gió đi dưới trời bỗng dưng có thể trở thành những cơn bão.

Lê Thị Huệ: Cảm ơn nhà văn Thế Dũng


  • thực hiện: Lê Thị Huệ