Phông chữ

Hắn tới Đức được hơn năm thì hiệp định Hợp tác xuất khẩu lao động giữa Cộng hòa Dân chủ Đức và Việt Nam tan. Nước Đức biến động chính trị tiến tới thống nhất.

>> Nguyễn Văn Thọ: Viết "Quyên", tôi như vơi đi một chút sự mắc nợ

Công việc ở nhà máy nơi hắn làm việc không nặng nhọc gì so với quãng đời hắn từng ở chiến trường chục năm, mặc dù ngày ngày làm việc trong nhà máy, mồ hôi luôn túa ra như tắm. Các cỗ máy ép vỏ ngoài những Diot điện tử bằng nhựa luôn tỏa nhiệt khủng khiếp, bất chấp các loại máy điều hòa.
Vậy mà cái nơi làm việc nóng nực ấy chả còn, nhà máy cũng tan, chẳng có con đường nào khác ngoài con đường ra chợ buôn bán vặt kiếm sống.

Ở chợ, bên cạnh chỗ hắn bán hàng có quầy bán rau quả chiều ngang tới sáu mét. Rau quả từng chồng kisten (thùng chuyên dụng đựng hoa quả) chất cao như núi, nên mẹt hàng khiêm tốn của hắn như kiến bên voi. Chủ quầy rau quả người Li băng tên thân mật là Joschi. Joschi nguyên là một sinh viên quay phim đứt xích, lấy vợ Đức, sau ở lại. Gã xoay xở nhiều nghề và cuối cùng chuyên bán rau quả trong các chợ phiên ngoài trời. Joschi kém hắn 2 tuổi, cao hơn hắn chục phân, nhưng nặng 87 kí, nên nom béo như con cun cút. Con cun cút râu quai nón, song vợ hắn bắt cạo sạch vì "Em không chịu được mùi khói thuốc hôi rình luôn ở bộ râu rậm không cạo". Joschi nghiện nặng. Cái mõm đen xì xì của gã luôn bập điếu thuốc lá No.1, thành ra nom y như ống khói di động luôn phì phò nhả khói. Một tay Libăng không để râu, bộ dạng như thế, cực khó coi so với những người Trung Đông râu dài rất oai vệ trong những bộ phim hắn đã xem ở Đức. Bù lại Joschi mau miệng, hay cười, chứ không đăm đăm nghiêm nghị khi tiếp xúc với hắn như cánh buôn bán người Đức ở chợ.

Buôn bán được hai tháng, một chiều Chủ nhật, Joschi hỏi, khi gọi hai ly cafe nóng:

- Hàng hóa mày bán xem ra cũng  ít khách?

- Đúng thế - Hắn lí giải thêm - Nếu tao có ôtô đi xa mua hàng, thì khá hơn.

Hôm sau, Joschi đột nhiên bảo:

- Hay là mày làm với tao.

Hắn trố mắt nhìn tay Libăng:

- Ngày bao nhiêu?

Joschi nói ngay:

- Tám chục D.mark (đơn vị tiền tệ Đức) một ngày.

Hắn nghĩ, mình bán hàng cả ngày cũng chỉ trăm hơn, trăm ngót, trừ tiền thuê chỗ, vé tàu đi lấy hàng, không bằng đi bán thuê cho gã. Ok! - Hắn nhận lời.

Phụ bán hoa quả không cần kiến thức gì mấy, nhưng là một việc nặng nhọc. Sớm tơ mơ, hắn chờ Joschi ở đầu chợ. Bắt đầu là việc bê toàn bộ các khay, các két gỗ đựng rau, hoa quả từ xe xuống, xếp quanh vị trí đứng bán. Căng ô, chăng lều. Phải sắp xếp các loại hàng theo ý Joschi, sao cho thuận tiện khi bán. Những thứ hoa quả dân Đông Đức hay mua như nho, táo, đào… được xếp quanh vị trí đứng. Rau thì xếp ở dãy mặt tiền. Xếp hàng xong, hắn phải chạy quanh, phụ giúp bán hàng. Phải lấy túi, lấy hoa quả từ các khay gỗ, dọn dẹp các thùng rỗng và hoa quả rụng, hỏng v.v... Tất nhiên, dầu là kém tuổi hắn, Joschi với tư cách ông chủ vẫn có quyền sai hắn như sai một thằng nhỏ. Khi thì đổi tiền lẻ, khi đi mua cà phê, gói thuốc. Có lúc hứng lên, hắn bảo bưng về vài cốc bia tươi để chủ và tớ hỉ hả nâng cốc…

Thế là suốt hai tháng hắn trở thành thằng nhỏ giúp Joschi như thế. Đã hơn 40 tuổi đầu, từng kinh qua trận mạc, từng là bố trẻ con, từng làm bí thư chi bộ, từng là đội trưởng đội lao động đứng đầu hơn hai trăm mạng, nay lĩnh một công việc y như một thằng oắt con bị sai vặt, đôi khi hắn cũng thấy tổn thương. Song biết làm sao được. Hắn cần tiền, cần đứng vững được ở nơi đây, nơi xứ người xa lạ, cách mảnh đất quen thuộc của hắn 16 giờ bay. Thôi! Nhẫn, kiên nhẫn! Hắn tặc lưỡi, nhớ lời cha, một trí thức từ thời Tây thông tường cả chữ Hán Nôm, viết dặn hắn ở thư gần đây nhất.

Công việc của Joschi xem ra ngày càng thuận lợi. Dân Đông Đức, sau khi đổi tiền, một Ostmark ăn một D.mark, đâm ra tiêu hoang như bắt được của. Joschi đã làm thỏa mãn cơn nghiền chuối Argentina và hoa quả nhiệt đới, là thứ xưa vốn hiếm hoi với dân phía Đông. Thành ra doanh thu của Joschi cứ lên vù vù.

Hắn cũng thạo việc ngay, bản năng lại nhanh như cắt, nên quan hệ giữa hắn và ông chủ rất thông đồng bén giọt. Sự thuận lợi tới mức đôi khi chợ thưa khách, Joschi muốn rảo quanh chợ cho đỡ cuồng chân, hoặc ra quầy bier làm vài vại, tin cậy để hắn đứng bán hàng. Điều đó làm cho hắn vui vui, vì trước đó hai ba tuần, Joschi chưa khi nào rời cái két nhỏ để trên bàn đựng tiền thu của khách.

Sau hai tháng làm thằng nhỏ, hắn bỏ ra 300 D.mark, mua cái Traban vỏ giấy nện của dân Đông Đức thải ra, nên việc đi lại cũng đỡ vất hơn, kể cả những ngày mưa lạnh, hay tuyết rơi trắng xóa.

Nước Đức mới thay đổi, chợ búa cũng đổi thay. Phần đất Đông Đức rào rào mở thêm chợ phiên, chợ trời, tức là sinh ra rất nhiều điểm bán khác. Việc mua hoa quả với dân Đông Đức cũng vẫn như tằm ăn rỗi nên Joschi quyết định mở ra ba điểm bán hàng khác. Hai điểm kia gã gọi em vợ tới bán. Còn điểm tại chợ bấy nay hắn và Joschi mở rộng chiều ngang tới gần chục mét. Joschi bảo, mày đứng một mình được rồi đấy. Tao đôi khi chạy đi chạy lại giữa ba quầy.

- Lương phải khác đi chứ? - Hắn không úp mở nói.

- Tất nhiên! - Joschi cười - 120 D.mark một ngày.

Ok! Ngay lập tức hắn bắt tay vào công việc với trách nhiệm mới.

Hóa ra phụ việc giản đơn hơn nhiều so với tự mình chỉ huy một quầy bán hàng! Để nhận thêm 40 D.mark, hắn bắt đầu nếm náp, biết thế nào là lao động làm thuê thật sự! Sớm sớm, từ hơn bốn giờ, hắn đánh chiếc Traban ghẻ tới Trung tâm bán buôn hoa quả, cách nhà gần năm chục cây số. Tại đó, hắn nhận lượng hàng cao như núi mà Bali đã xếp riêng một ô. Bốc hết số hoa quả ấy lên xe, rồi lại đánh xe tới điểm bán và dỡ hết xuống. Trời đầy tuyết lạnh thế mà có bữa bốc hết hàng cho kịp giờ mở chợ, mồ hôi túa ra ướt hết cả áo trong. Công việc chẳng còn cố định điểm bán như xưa. Thường là Joschi chọn các hội chợ thời gian bán kéo dài từ 3 tới 5 ngày. Đôi khi có phiên chợ  đẫy cả nửa tháng. Mệt đấy, song hắn cũng vui vui vì trước đó, Joschi từ chỗ không bao giờ cho hắn mon men tới két tiền, nay gã lại giao cho toàn bộ một núi tiền, hàng vậy. Nhưng để đổi lại nguồn vui mong manh ấy, hắn phải lao động một cách hết sức khốn nạn. Đám người châu Âu tới chợ đâu chỉ mua hàng. Trăm cái thú của họ, có cái thú chơi chợ! Sau mỗi tuần, đa phần mệt nhoài trong công sở, nhà máy, trong phòng ngủ trắng toát hay nhà vườn đơn lẻ, đến chợ là thư giãn hết mình. Tức là trung bình mỗi ngày, tính cả thời gian đi lấy hàng và trả xe về kho, hắn làm việc từ 12 tới 14 tiếng.

Thao tác bán hoa quả cũng không đơn thuần, không chỉ là một phu khuân vác. Cứ giật túi, cúi xuống lấy rau, hoa quả, đưa cho khách, nhận tiền… từng ấy động tác, để bán sao cho hết một núi hoa quả từ 1 tới 5 tấn, thậm chí 7- 8, thậm chí 9 tấn một ngày, cũng đủ làm bại liệt hai cánh tay. Nhất là, khi dân Đông Đức bia rượu xong, thú mua hàng bỗng vọt ra như kẻ khùng. Người đông như kiến cỏ, xếp hàng cả dẫy tới hai ba chục người trước quầy. Tuần đầu về, lưng như gãy ra. Đặc biệt hai bắp tay hắn đọng máu, cứng đanh lại, nhức nhối vô cùng. Tối ngủ, hắn nghĩ ra cách giơ ngược hai tay, phía sau đầu, kê lên thành giường. Làm như thế máu chảy xuống, đỡ đi phần nào đau đớn để hắn thiêm thiếp ngủ vùi. Cuộc sống cứ thế triền miên. Không xem hát, không tivi, nhạc nhẽo. Đến cả yêu đương, làm tình hắn cũng chẳng kịp nhớ ra!

Ngày lại ngày, tiền thu được trung bình từ 3 tới 5 ngàn, có phiên chợ mở ở lễ hội địa phương, như Lễ hội tưởng niệm trận thắng của Napoléon Bonaparte ở Grossberen, cả trăm ngàn người khắp Đức và Pháp kéo tới chợ, thì một ngày bán tới cả 10 ngàn D.mark.

Buôn bán hai ba tháng, nắm được giá mua, chiều tối kiểm tiền, hắn giật mình khi biết mỗi ngày mang lời cho Joschi từ 1.500 tới 3.000, 4.000 D.mark. Trong khi con cun cút kia trả hắn mỗi ngày 120 D.mark!

Một tối trao tiền cho Joschi, hắn chợt lóe lên ý định, sao không ăn cắp tiền của gã. Mà mình có ăn cắp gì đâu nhỉ? Tiền lời của hắn bớt đi chút ít cũng là cái mà mình làm ra! Hắn ngụy biện. Lấy của Joschi 100 D.mark mỗi ngày cực dễ. Vì bán hoa quả không thể kiểm đếm được chính xác đầu ra. Kinh doanh hoa quả không như quần áo hay thứ khác, mà đếm kiểm dễ dàng. Bởi hoa quả là sinh thể sống, có quả chín quá, có quả thối, rụng, nát, vứt đi đổ đống, cho vào thùng cát-tông dùng đựng chuối đã rỗng nào đó, rồi ném vào container rác, bố nó cũng không biết! Hắn cũng toan tính sẽ lấy tiền vào lúc trưa. Đấy là lúc Joschi không thể tới nơi hắn. Con cun cút dứt khoát sẽ trải một cái khăn sặc sỡ vẫn quàng cổ, ở đâu đó trên mặt đất, quỳ xuống, kính cẩn hướng về mặt trời để lạy đức A La linh thiêng của gã.

Nghĩ là thế, tính là thế, tỉ mỉ, thông minh như một trinh sát viên thời chiến, nhưng trong tâm trí hắn vẫn thấy có gì bất ổn, không bình an và, thường là sau những toan tính ấy lại tự nhủ: Thôi để mai, ngày mai sẽ lấy!

Cứ lần lữa như thế hơn tuần, chỉ mình hắn biết cái lao lung vô cùng mong manh ở tâm can hắn. Hắn đứng giữa một lằn ranh mà hắn phải dứt khoát quyết định, hoặc nhảy sang bên này, hoặc ở hẳn vị trí nguyên sơ như bản ngã con người hắn xa xưa lâu lắm rồi, trong một gia đình ở Hà Nội, nơi chôn nhau cắt rốn của hắn, nơi mà từ nhỏ hắn không bao giờ dám tơ hào một xu của ai bao giờ. Hắn phải là ai? Là một người làm thuê khốn nạn hay một thằng ăn cắp! Cái điều ấy tưởng đơn giản mà khó khăn thế! Một ngày Chủ nhật, mưa tuyết lạnh, trở về ngôi nhà hắn ở, người hâm hấp sốt, hắn tứa nước mắt khi ngồi trong bóng tối, ở xó nhà quay mặt vào tường, đếm từng đồng D.mark sau một tuần làm thuê có được. Đêm ấy, hắn tự dằn vặt, tự vấn hắn là ai, là ai? Hắn thông minh hay không phải là thông minh khi chợt nghĩ rằng, mọi sự tính toán chuẩn bị chỉ là sự khôn ngoan láu cá truyền kiếp của một thằng hèn.

Toàn bộ quá trình lần lữa ấy dằn vặt hắn từng ngày. Từng ngày, nhất là lúc mà hắn biết rõ rằng, giờ này Joschi đang quỳ xuống và cẩu khẩn! Nó giằng co tới đau đớn khi diễn ra ở một vùng xa hoắc! Nơi không có họ hàng hang hốc, nơi thân cô thế cô và cũng là nơi - từng đêm khuya lắm - đôi khi trong giấc ngủ mệt mỏi hắn vẫn có những cơn mơ. Hắn thấy hắn vượt qua những cánh rừng bom đạn lở loét, ven những con suối đầy vắt và những khe đá bướm trắng xóa dập dờn hoa cả mắt. Cả một con đường nữa, khác hẳn con đường giữa cánh rừng kia. Đường dài hun hút, gió buốt lạnh thổi và những hốc mắt đầy bụi, sương, tuyết trắng. Rồi chính hắn lại thấy hắn ngồi trong bóng tối, đếm từng đồng tiền lẻ nhầu nát của Joschi đã trả sau từng tuần.

Không, tôi không thể, không bao giờ là thằng hèn! Tôi là kẻ làm thuê khốn nạn chứ không thể là kẻ cắp - Hắn bật dậy, tỉnh mơ trong đêm tối, lẩm bẩm tự nói với chính hắn.

Ngày lại ngày hắn vẫn đi làm thuê cho Joschi. Hắn cố gắng bớt nhìn vào két tiền nhỏ đầy cám dỗ và bỏ thói quen nhìn cách kiểm tiền của Joschi mỗi tối kết thúc việc buôn bán!

Cuối tuần năm ấy, cái ôtô tự nhiên khặc khừ dở chứng. Joschi cho nghỉ chợ hai hôm để chữa cái bơm dầu ôtô hiệu Mercedes. Xe chữa xong, chúng cho xe chạy thử trên con đường hai bên rực rỡ biển cúc dại đã chín vàng. Gió he he thổi trên cánh đồng đầy hương cúc, hoa dại đủ loài làm hắn thấy thư thái và phấn chấn trong nắng vàng ươm chiếu trên thảm đồng. Xe lại chạy tốt! Joschi và hắn đỗ xe bên một quán bia ven đường. Joschi gọi bia đen với đĩa thịt cừu Doenegebap và gọi riêng cho hắn món rất khoái khẩu, đó là đĩa chân giò hầm với bắp cải muối chua.

Bia tươi đen rất đậm. Thịt ngậy và béo nhậu với dưa cải chua thật đưa đẩy. Chúng uống tới vại thứ ba. Joschi, con cun cút vung vẩy liên tục điếu N1 trên tay. Lần đầu tiên gã nói chuyện rất hăng. Gã kể về những cánh đồng quê lúa mạch và ngô. Những bãi cừu và cả những mỏ dầu... v.v... Gã kể về cách nướng chiếc bánh ngô mỏng Trung Đông và cán mỏng chúng trên tấm sắt đặt trên than hồng và lan man sang đứa con gái béo ị, đôi mắt to xanh biếc, thi thoảng tới quầy chơi, nũng nịu bắt hắn mua cho nó một cái vé đu quay.

Câu chuyện lê la tới chuyện của hắn. Bier có bia, vui và buồn. Hôm nay chả giấu nhau gì. Hắn chẳng thèm giấu Joschi sự nghèo nàn của Hà Nội. Hắn kể về căn nhà luôn vắng mùi thịt cá, về đứa con tật nguyền của mình và cả những tháng năm bom đạn chiến tranh trong rừng. Hắn kể cho Joschi về người cha, một họa sĩ có tài và chiếc đàn dân tộc với cung bậc và tiết tấu chậm nhẩn nha, chứ không rộn rã như giai điệu của tụi Trung Đông chúng mày. Joschi nghe rất chăm chú. Gã luôn luôn tỏ ra đồng cảm, gật gù cái đầu có bộ tóc quăn rậm, xoa xoa bàn tay chuối mắn vào cái cằm đen xì xì của con cun cút rồi bảo: "Mày hãy học buôn bán! Nếu chịu khó, mày có thể là ông chủ và có tiền. Có tiền, mọi việc sẽ giản đơn hơn, dầu âu lo thì chả khi nào con người ta hết tiệt cái âu lo cả. Cũng như việc làm thuê cực nhọc, song làm ông chủ cũng nhiều thứ lo đấy!" - Joschi nháy mắt.

Khi ông chủ và thằng làm thuê uống đã ngà ngà, là lúc có thể nói hết! Hắn nghĩ và hít mạnh một hơi rồi nói tuột với Joschi tất cả suy nghĩ của mình.

Hắn nói:

- Joschi này, giờ đây mày có ba quầy, mày chỉ làm thằng đi uống bia và hút thuốc suốt ngày, trong khi tao chân lấm tay bùn - Hắn dừng một tẹo, chao thêm ngụm bia rõ to, nói thẳng vào điểm quan trọng nhất - Tao mà lấy của mày mỗi ngày một trăm, mày cũng chả biết. Mày phải tăng lương cho tao và quan trọng hơn nữa là, nếu như tự nhận là thằng tử tế trên đời này, thì mày đừng biến tao thành thằng ăn cắp!

Cầm li bia trong tay, Joschi nghe hắn rất chăm chú. Nét mặt của Joschi khi ấy rất khó đoán đang nghĩ gì. "Một thằng Trung Đông từng trải như gã, không thể thờ ơ trước thái độ sòng phẳng và kiên quyết của mình được!" - Hắn nghĩ vậy và kết thúc chuyện bằng một tiếng thở dài, có thể nói quá ra là bay thẳng tận trời xanh leo lẻo bấy giờ.

Joschi bỗng vất tuột điếu thuốc hút dở vào gạt tàn, nhìn thẳng vào mắt hắn, gằn từng từ: "Thực sự là mày không lấy tiền của tao chứ?".

Hắn nói: "Không!".

Joschi dằn mạnh ly bia xuống bàn. Bia tóe ra vào cả quần cả hai đứa. Con cun cút nặng gần tạ đột ngột đứng dậy.

Hắn, theo phản xạ tự nhiên sau bao năm chiến tranh, bao năm giang hồ phiêu bạt cũng đứng bật dậy.

Hai con người da màu ấy nhìn thẳng vào mắt nhau không chớp. Mắt Joschi đầy những tia máu. Có thể gã sẽ tống mình một quả chăng? Nếu vậy, hắn sẽ giáng thẳng vại bia nặng chịch ngay vào đầu gã, cho chừa cái thói sai vặt! Hắn thoáng nghĩ và đặt tay lên quai vại bia nửa lít bằng gốm nặng tới gần kí lô, sẵn sàng ở tư thế phản công!

Nhưng Joschi không làm bậy như hắn đề phòng. Gã đột ngột đưa tay ra, nắm lấy bàn tay hắn và ấn hắn ngồi xuống ghế.

Bọn chúng im như thóc tới dăm giây, không nói một lời. Joschi tiếp tục uống đến ba bốn vại bia đen tươi sóng sánh, đầm đậm mùi men trong yên lặng của gió, của cây và đất. Hắn cũng im lặng uống, và không thể dự đoán chính xác Joschi sẽ giải quyết lời đề nghị của hắn theo hướng nào? Nhưng rõ ràng hắn phải nói. Nói ra, lòng hắn như trút hết gánh nặng vô cùng trước đó. Và khi ấy, để nói cho ra nhẽ cùng tận sự thật, dù chua chát và cay đắng, song cần thiết như vậy, trong lòng hắn cũng trào ra một xúc cảm không thể dễ diễn tả. Cay đắng và ngọt ngào như những li bia kia, nghẹn ngào uống mãi mà không thể khóc được. Hắn cũng dự định, nếu Joschi không tăng lương thì ngày mai sẽ tự thôi việc. Vâng, con không thể chịu đựng mãi như thế cậu ạ. Lá thư trong đêm ấy hắn viết cho cha gửi về Việt Nam có dòng ghi như vậy.

Hắn không thôi việc.

Ngay hôm sau, Joschi tăng lương cho hắn lên 150 D.mark một ngày và kết thúc mỗi kì hội chợ thường thưởng cho hắn từ 100 tới 500 D.mark - tùy theo số ngày bán và tổng số tiền thu được mỗi phiên chợ. Joschi cười, nhe bộ răng vàng xỉn vì khói thuốc. Con cun cút vẫy vẫy tập tiền trong bàn tay múp míp vàng khè khói thuốc, bảo: "Tiền cho thằng bạn không muốn là kẻ ăn cắp".

Mùa đông rồi lại tới xuân năm tới, sau Noel, nhờ chăm chỉ và tiết kiệm, tiền vốn đã hòm hòm, hắn quyết định tạm biệt nghề bán thuê hoa quả, tự mở một quầy có ô lều buôn bán quần áo với chiếc Open 3 tấn không mới, nhưng máy móc còn rất tốt. Ngày chia tay, Joschi mời hắn đi ăn một bữa ở quán Libăng giữa trung tâm Berlin. Quán ăn với nhiều món thịt cừu thực không tồi. Rượu thì rất êm nhưng mới có 4 ly mà hai đứa đã la đà. Joschi bấy giờ mới nghiêm sắc mặt nói:

- Tao sẽ thông báo cho mày từng phiên chợ, điều mà chỉ Hội buôn bán Thổ và Trung Đông tụi tao biết rõ. Có gì khó khăn về thuế khóa, cứ nói với tao. Tao có kinh nghiệm đấy. Còn giờ mày là chủ rồi. Làm một thằng chủ buôn bán lang thang đầu hè, cuối chợ cũng không giản đơn đâu. Làm chủ, bao giờ cũng dự kiến tất cả, cả số rơi vãi vì hàng hóa bị mất cắp. Ngay cả các siêu thị người ta cũng hoạch định điều đó ở trong kế hoạch hạch toán ban đầu…

Ồ, hóa vậy! Nghe Joschi nói hết, hắn mới hiểu, điều Joschi không ngờ nhất, không phải là hắn - kẻ làm thuê có ăn cắp hay không, mà là hắn đã nói toạc ra sự thật... Và hắn, kẻ làm thuê, đã gây cho con cun cút sự ngạc nhiên, không rơi vào cái giả thiết của mọi ông chủ là: đã có kẻ làm thuê, dầu bị kiểm soát chặt, vẫn phải dự kiến điều mất mát, thời gian hay tiền bạc, hàng hóa…

Vài tháng sau, một họa sĩ già ở Hà Nội nhận một gói tiền USD của con trai ông gửi về từ Đức. Ở giữa sấp ngoại tệ mới còn thơm nức mùi tiền, có nhét một lá thư nét chữ thẳng thớm. Thư chỉ ngắn, vẻn vẹn: "Con vẫn khỏe. Cậu đừng lo lắng nhiều! Cuộc sống ở nơi đây chẳng hề gì cậu ạ. Mà có dù vất vả, khốc liệt tới mấy, con sẽ qua được… như hôm nào ở chiến trường là cùng, con sẽ trở về nguyên lành với cậu…

Hà Nội - Berlin

Truyện ngắn của Nguyễn Văn Thọ
VNCA Xuân Nhâm Thìn

>> Nguyễn Văn Thọ: Viết "Quyên", tôi như vơi đi một chút sự mắc nợ